Sự tồn tại của linh hồn là một trong những câu hỏi quan trọng nhất của cuộc sống. Mặc dù các tôn giáo luôn nói về sự tồn tại của nó, nhưng làm sao chúng ta biết được liệu linh hồn có thực sự tồn tại hay không?
Một chuỗi các thí nghiệm khoa học mới giúp trả lời câu hỏi tâm linh cổ xưa này. Bài viết của Tiến sĩ Robert Lanza, 1 trong 100 người có ảnh hưởng nhất thế giới năm 2014 được tạp chí TIME bình chọn.
Tiến sĩ Robert Lanza là Trưởng phòng Y học Tái sinh Toàn cầu Astellas, Giám đốc Khoa học của AIRM và là giáo sư tại Đại học Wake Forest, Mỹ. Tạp chí TIME đã công nhận ông là một trong “100 người có ảnh hưởng nhất trên thế giới”. Ông có nhiều nghiên cứu sâu về lĩnh vực tế bào gốc, kỹ thuật mô, y học tái tạo. Ông cũng có nhiều nghiên cứu về lĩnh vực tư tưởng của con người và được tạp chí Prospect vinh danh là một trong 50 “Nhà tư tưởng của thế giới”.
Tiến sĩ Robert Lanza, được tạp chí Prospect vinh danh là một trong 50 “Nhà tư tưởng của thế giới”. (Ảnh: Wikipedia)
Ý tưởng về linh hồn gắn liền với ý tưởng về một cuộc sống tương lai và niềm tin của chúng ta về sự tồn tại tiếp tục sau khi chết. Nó được cho là yếu tố cơ bản cuối cùng sống động nhất mà chúng ta suy nghĩ và cảm nhận, nhưng không phụ thuộc vào cơ thể. Nhiều người suy ra sự tồn tại của nó mà không cần phân tích hay phản ánh khoa học. Thật vậy, những bí ẩn về sự sinh ra và cái chết, cuộc dạo chơi của ý thức trong những giấc mơ (hoặc khi ta say rượu), và thậm chí cả những hoạt động trí óc phổ biến nhất – chẳng hạn như trí tưởng tượng và trí nhớ – gợi ý sự tồn tại của một sinh lực quan trọng – thứ tồn tại độc lập với cơ thể.
Tuy nhiên, mô hình khoa học hiện tại không nhận ra không gian tinh thần này của cuộc sống. Chúng ta được dạy rằng ta chỉ là hoạt động của phân tử các-bon và một số phân tử protein; chúng ta sống một thời gian và chết. Và vũ trụ? Nó cũng không có ý nghĩa. Tất cả đã được tính toán theo phương trình – không cần linh hồn. Nhưng Thuyết trung sinh (biocentrism – sự sống làm trung tâm) – một ‘lý thuyết về mọi thứ’ mới – thách thức mô hình thực tại duy vật truyền thống này. Theo tất cả các hướng, mô hình lỗi thời này dẫn đến những bí ẩn khó giải đáp, đến những ý tưởng cuối cùng là phi lý. Nhưng kiến thức là khúc dạo đầu cho sự khôn ngoan, và chẳng bao lâu nữa thế giới quan của chúng ta sẽ bắt kịp sự thật.
Tất nhiên, hầu hết những người có tín ngưỡng nhìn nhận về linh hồn một cách rõ ràng và dứt khoát hơn khái niệm khoa học. Nó được coi là bản chất thực sự của một người, và được cho là bất tử và siêu việt so với sự tồn tại vật chất. Nhưng khi các nhà khoa học nói về linh hồn (nếu có), nó thường ở trong bối cảnh vật chất, hoặc được coi như một từ đồng nghĩa đầy thi vị của suy nghĩ. Mọi thứ có thể biết về “linh hồn” đều có thể học được bằng cách nghiên cứu hoạt động của não bộ. Theo quan điểm của họ, khoa học thần kinh là nhánh nghiên cứu khoa học duy nhất có liên quan đến việc tìm hiểu linh hồn.
Theo truyền thống, khoa học đã bác bỏ linh hồn như một đối tượng của niềm tin của con người, hoặc tối giản nó thành một khái niệm tâm lý giúp định hình nhận thức của chúng ta về thế giới tự nhiên có thể quan sát được. Vì vậy, thuật ngữ “sự sống” và “cái chết” không khác gì những khái niệm chung về “sự sống sinh học” và “cái chết sinh học.” Nguyên tắc hoạt hình đơn giản là các quy luật hóa học và vật lý. Bạn (và tất cả các nhà thơ và triết gia từng sống) chỉ là hạt bụi quay quanh lõi của dải Ngân hà.
Khi tôi ngồi đây trong văn phòng của mình với hàng đống sách khoa học, tôi không thể tìm thấy một tài liệu tham khảo nào về linh hồn, hay bất kỳ khái niệm nào về một bản chất vĩnh cửu, phi vật chất đang chiếm hữu chúng ta. Thật vậy, một linh hồn chưa bao giờ được nhìn thấy dưới kính hiển vi điện tử, cũng như không được quay trong phòng thí nghiệm trong ống nghiệm hoặc máy siêu ly tâm. Theo những cuốn sách này, không có gì tồn tại lâu hơn cơ thể con người sau khi chết.
Trong khi khoa học về thần kinh đã đạt được những tiến bộ to lớn làm sáng tỏ hoạt động của bộ não, tại sao một trải nghiệm chủ quan vẫn còn là điều bí ẩn. Vấn đề của linh hồn nằm chính xác ở đây, trong việc hiểu bản chất của cái tôi, cái “tôi” đang tồn tại để cảm nhận và sống cuộc sống. Nhưng đây không chỉ là vấn đề đối với sinh học và khoa học nhận thức, mà còn đối với toàn bộ triết học tự nhiên phương Tây.
Thế giới quan hiện tại của chúng ta – thế giới của khách quan và chủ nghĩa hiện thực ngây thơ – đang bắt đầu xuất hiện những vết nứt nghiêm trọng. Tất nhiên, điều này sẽ không gây ngạc nhiên cho nhiều triết gia và những độc giả khác, những ai, khi chiêm ngưỡng các tác phẩm của những người như Plato, Socrates, Kant, của Đức Phật và các vị thầy tâm linh vĩ đại khác, luôn băn khoăn về mối quan hệ giữa vũ trụ và tâm trí của con người.
Gần đây, thuyết trung sinh và các lý thuyết khoa học khác cũng bắt đầu thách thức mô hình vật lý – hóa học cũ, và đặt ra một số câu hỏi khó về sự sống: Có linh hồn không? Có điều gì chịu đựng được sự tàn phá của thời gian?
Cuộc sống và ý thức là trung tâm của quan điểm mới này về bản thể, thực tại và vũ trụ. Mặc dù mô hình khoa học hiện tại dựa trên niềm tin rằng thế giới có sự tồn tại khách quan không phụ thuộc vào người quan sát, các thí nghiệm thực tế lại cho thấy điều ngược lại. Chúng ta nghĩ rằng cuộc sống chỉ là hoạt động của các nguyên tử và hạt, chúng quay xung quanh một lúc rồi tan biến vào hư vô. Nhưng nếu chúng ta thêm sự sống vào phương trình, chúng ta có thể giải thích một số câu đố lớn của khoa học hiện đại, bao gồm nguyên lý bất định, sự vướng víu và sự tinh chỉnh của các quy luật hình thành vũ trụ.
Hãy xem xét thí nghiệm khe đôi nổi tiếng. Khi bạn quan sát một hạt đi qua các khe, nó sẽ hoạt động giống như một viên đạn, đi qua khe này hay khe khác. Nhưng nếu không có ai quan sát hạt, nó thể hiện hành vi của sóng và có thể đi qua cả 2 khe cùng một lúc. Thí nghiệm này và các thí nghiệm khác cho chúng ta biết rằng các hạt không được quan sát chỉ tồn tại dưới dạng ‘sóng xác suất’ như nhà vật lý học và toán học Max Born, người đoạt giải Nobel đã chứng minh vào năm 1926. Chúng là những dự đoán thống kê – không có gì khác ngoài một kết quả có thể xảy ra. Cho đến khi được quan sát, chúng không có tồn tại thực sự; chỉ khi tâm trí người quan sát đặt đúng vị trí, chúng mới có thể được coi là có khoảng thời gian tồn tại hoặc có vị trí trong không gian. Các thí nghiệm ngày càng làm rõ rằng ngay cả kiến thức đơn thuần trong đầu người thí nghiệm cũng đủ để biến khả năng thành hiện thực.
Nhiều nhà khoa học bác bỏ ý nghĩa của những thí nghiệm này, bởi vì cho đến gần đây, hành vi phụ thuộc vào người quan sát này được cho là chỉ giới hạn trong thế giới hạ nguyên tử. Tuy nhiên, điều này đang được các nhà nghiên cứu trên thế giới thách thức. Trên thực tế, trong năm 2011, một nhóm các nhà vật lý (ông Gerlich và cộng sự, Nature Communications 2: 263, 2011) đã chỉ ra rằng sự kỳ lạ lượng tử cũng xảy ra trong thế giới quy mô con người. Họ đã nghiên cứu các hợp chất khổng lồ bao gồm tới 430 nguyên tử, và xác nhận rằng hành vi lượng tử kỳ lạ này mở rộng ra thế giới rộng lớn hơn mà chúng ta đang sống.
Quan trọng là, điều này có liên quan trực tiếp đến câu hỏi liệu con người và các sinh vật sống khác có linh hồn hay không. Như nhà triết học Kant đã chỉ ra hơn 200 năm trước, mọi thứ chúng ta trải nghiệm – bao gồm tất cả màu sắc, cảm giác và đối tượng mà chúng ta nhận thức – không là gì ngoài những hình ảnh đại diện trong tâm trí chúng ta. Không gian và thời gian chỉ đơn giản là công cụ của tâm trí để kết hợp tất cả lại với nhau. Giờ đây, trước sự thích thú của những người theo chủ nghĩa duy tâm, các nhà khoa học đang bắt đầu lờ mờ nhận ra rằng những quy tắc đó khiến bản thân sự tồn tại trở nên khả thi. Thật vậy, các thí nghiệm trên cho thấy rằng các vật thể chỉ tồn tại với các thuộc tính thực nếu chúng được quan sát. Kết quả không chỉ thách thức trực giác cổ điển của chúng ta, mà còn cho thấy rằng một phần của tâm trí – linh hồn – là bất tử và tồn tại bên ngoài không gian và thời gian.
Nhà sử học, triết học người Mỹ Will Durant viết “Hy vọng về một cuộc sống khác” cho chúng ta dũng khí để đối mặt với cái chết của chính mình và chịu đựng cái chết của những người thân yêu của chúng ta; chúng ta được trang bị vũ khí 2 lần nếu chúng ta chiến đấu bằng niềm tin.”
Và chúng ta được trang bị gấp 3 lần nếu chúng ta chiến đấu với khoa học.
Nguồn: trithucvn
Vui lòng trích dẫn link nguồn khi copy nội dung bài viết này! Trân trọng cảm ơn
0 comments: